![k1YOeAaKplHWgcp0K8Gk.jpg](https://media3.scdn.vn/img4/2023/03_29/k1YOeAaKplHWgcp0K8Gk.jpg)
![sAcThO3i3qbZdg9t67IM.jpg](https://media3.scdn.vn/img4/2023/03_29/sAcThO3i3qbZdg9t67IM.jpg)
![vHCSmH9zWIos6GkuIXYl.jpg](https://media3.scdn.vn/img4/2023/03_29/vHCSmH9zWIos6GkuIXYl.jpg)
![KPfsw9YxeYJkNbe9rxUC.jpg](https://media3.scdn.vn/img4/2023/03_29/KPfsw9YxeYJkNbe9rxUC.jpg)
![YtAONiS9vdsKznf5EL1l.jpg](https://media3.scdn.vn/img4/2023/03_29/YtAONiS9vdsKznf5EL1l.jpg)
Chi Keo(danh pháp khoa học:Acacia) là một chi của một số loài câythân bụivàthân gỗcó nguồn gốc tại đại lục cổGondwana, thuộc vềphân họ Trinh nữ(Mimosoideae) thuộc họ Đậu (Fabaceae), lần đầu tiên đượcLinnaeusmiêu tả năm1773tại châu Phi. Hiện nay, người ta biết khoảng 1.300 loài cây keo trên toàn thế giới, trong đó khoảng 950 loài có nguồn gốc ởAustralia, và phần còn lại phổ biến trong các khu vực khô của vùng nhiệt đới và ôn đới ấm ở cả hai bán cầu, bao gồm châu Phi, miền nam châu Á, châu Mỹ. Tuy nhiên, chiAcaciadường như là khôngđơn ngành. Phát hiện này đã dẫn tới sự chia táchAcaciathành 5 chi mới, xem thêm bàiDanh sách các loài cây keo.
Loài sinh trưởng xa nhất về phía bắc của chi này làAcacia greggii(keo vuốt mèo), đạt tới 37°10' vĩ bắc ở miền namUtah,Hoa Kỳ; loài sinh trưởng xa nhất về phía nam làAcacia dealbata(keo bạc),Acacia longifolia(keo bờ biểnhay keo vàng Sydney),Acacia mearnsii(keo đen) vàAcacia melanoxylon(keo gỗ đen), đạt tới 43°30' vĩ nam ởTasmania, Australia, trong khiAcacia cavenđạt tới vĩ độ tương tự như thế về phía nam, tại khu vực đông bắc tỉnhChubut,Argentina. Trong tiếng Anh, các loài ở Australia gọi chung làwattle(cây keo Úc), còn các loài châu Phi và châu Mỹ gọi chung làacacia(cây keo).
Đặc điểm
Lá của các loài keo nói chung là loại lá hình lông chim phức. Tuy nhiên, ở một số loài đặc biệt ở Australia và các đảo trên Thái Bình Dương thì các lá chét bị triệt tiêu và các cuống lá có dạng phẳng và bẹt, hướng lên trên, có tác dụng giống như lá; chúng được gọi làcuống dạng lá. Hướng thẳng đứng của các cuống dạng lá bảo vệ cho các loài cây này không bị quá nóng do ánh sáng dữ dội của Mặt Trời, do chúng chắn ít ánh sáng hơn so với các lá cây nằm ngang. Một số loài (chẳng hạnAcacia glaucoptera) thiếu cả lá lẫn cuống dạng lá, nhưng cócành dạng lá, là một phần của thân cây đã biến đổi thành dạng tương tự như lá để có chức năngquang hợp.
Các hoa nhỏ có 5 cánh hoa rất nhỏ, gần như ẩn kín trong các nhị hoa dài và được phân bổ trong các cụm hoa dày dặc dạng hình cầu hay hình trụ; chúng có màu vàng hay màu kem ở một số loài, một số loài khác thì màu hơi trắng hay thậm chí là tía (chẳng hạnAcacia purpureapetala) hoặc đỏ (trong loài được trồng gần đâyAcacia leprosa).
Các loài thường có gai, đặc biệt ở các loài sinh trưởng trong khu vực khô cằn. Chúng thường là các cành bị ngắn đi, cứng và sắc, hoặc đôi khi làlá kèmdạng lá biến hóa thành. Các ví dụ:Acacia armatalà câygai Kangarooở Australia,Acacia giraffae, là câygai lạc đàở châu Phi. Tại Trung Mỹ,Acacia sphaerocephala(câygai bò) vàAcacia spadicigera, các lá kèm tương tự như gai lớn thường rỗng và cung cấp nơi làm tổ cho các loàikiến, chúng ăn các chất được tiết ra trên cuống lá và các loại thức ăn kỳ dị ở chóp lá chét; ngược lại chúng bảo vệ cho cây chống lại các loài côn trùng ăn lá.
Tại Australia, các loài keo bịấu trùngcủa một số loàinhậythuộc họHepialidaephá hoại, chẳng hạn các loài thuộc chiAenetusnhưA. ligniveren. Chúng đào hang theo chiều ngang vòng quanh thân cây, sau đó theo chiều đứng xuống dưới. Các ấu trùng khác cùng thuộc bộLepidopteracũng được ghi nhận là phá hoạiAcacia, nhưbướm đuôi nâu,Endoclita malabaricusvànhậy củ cải. Các loài ấu trùng ăn lá của một số loài thuộc họBucculatricidaecũng phá hoại lá keo: chẳng hạnBucculatrix agilischỉ ăn lá của câyAcacia horridahayBucculatrix flexuosachỉ ăn lá câyAcacia nilotica.