Đặc điểm nhận dạng: Cây lâu năm, có 4 - 5 lá mọc chụm. Lá hình dải, cỡ 14 - 42 x 2,5 - 4 cm, màu lục ở mặt trên, lục nhạt ở mặt dưới, với nhiều chấm màu nâu tía ở gốc. Cụm hoa có cuống dài 7 - 24 cm, mang 1 hoa. Lá bắc cỡ 3,7 - 6,5 x 3 - 3,8 cm, nhẵn. Hoa rộng 7,5 - 13,5 cm, có lông trắng ngắn ở mặt ngoài lá đài; lá đài gần trục hoa màu trắng, ở gần giữa màu lục và ở chính giữa là màu đỏ thẫm, hình trứng ngược, cỡ 4,5 - 7 x 3 - 4,6 cm; lá đài kia màu lục nhạt, hình trứng ngược, cỡ 3,8 - 7,6 x 1,8 - 2,6 cm; cánh hoa bóng, màu đỏ nâu với dải giữa màu đỏ thẫm và gốc vàng - nâu, thường hình thìa, cỡ 4,7 - 8,6 x 2,5 - 4,6 cm, có lông ria (mép) và lông màu tía ở gốc; môi màu đỏ với mạng gân màu đỏ thẫm, cỡ 4 - 6,8 x 3 - 3,8 cm; nhị lép màu vàng, hình tim ngược, cỡ 1,6 x 1,4 cm, có lông cứng; bầu dài 3 - 6 cm, phủ lông dày đặc.
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa tháng 4 - 6. Mọc dưới tán rừng nguyên sinh rậm thường xanh nhiệt đới mưa mùa cây lá rộng hay hỗn giao với cây lá kim trên núi đá granit, ở độ cao 1100 - 2000 m, bám thành bụi nhỏ rất rải rác trên thân và cành cây gỗ, đôi khi cả trên các tảng đá ở sườn núi.
Phân bố:
Trong nước: Gia Lai (núi Chư Pah), Lâm Đồng (Lạc Dương: núi Bì Đúp), Khánh Hoà (Hòn Giao).
Giá trị: Loài cây làm cảnh quý vì hoa có màu sặc sỡ, đẹp, hiếm và sống bám.
Tình trạng: Loài vốn có khu phân bố hẹp, nơi cư trú lại bị chia cắt rải rác và có số lượng cá thể ít ỏi lại bị thu hái đến kiệt quệ để bán trồng làm cảnh ở trong nước và xuất khẩu lậu qua biên giới nên đang bị tuyệt chủng. Hiện nay các cá thể còn sót lại rất rải rác ở trên các cành cây cao hay tầng đã bị che khuất cũng có số phận rất mong manh do môi trường sống là rừng bị chặt và đốt và do vẫn tiếp tục bị tận thu.