![6aLvoEUpcFgjVlNEcLCN.jpg](https://media3.scdn.vn/img4/2021/09_25/6aLvoEUpcFgjVlNEcLCN.jpg)
![Tl7ZshnHpjNGrSO4O214.jpg](https://media3.scdn.vn/img4/2021/09_25/Tl7ZshnHpjNGrSO4O214.jpg)
![5WDTiJDh3HkzGoqaN8UD.jpg](https://media3.scdn.vn/img4/2022/11_01/5WDTiJDh3HkzGoqaN8UD.jpg)
Chi Keo (danh pháp khoa học: Acacia) là một chi của một số loài cây thân bụi và thân gỗ có nguồn gốc tại đại lục cổ Gondwana, thuộc về phân họ Trinh nữ (Mimosoideae) thuộc họ Đậu (Fabaceae), lần đầu tiên được Linnaeus miêu tả năm 1773 tại châu Phi. Hiện nay, người ta biết khoảng 1.300 loài cây keo trên toàn thế giới, trong đó khoảng 950 loài có nguồn gốc ở Australia, và phần còn lại phổ biến trong các khu vực khô của vùng nhiệt đới và ôn đới ấm ở cả hai bán cầu, bao gồm châu Phi, miền nam châu Á, châu Mỹ. Tuy nhiên, chi Acacia dường như là không đơn ngành. Phát hiện này đã dẫn tới sự chia tách Acacia thành 5 chi mới, xem thêm bài Danh sách các loài cây keo.
Loài sinh trưởng xa nhất về phía bắc của chi này là Acacia greggii (keo vuốt mèo), đạt tới 37°10' vĩ bắc ở miền nam Utah, Hoa Kỳ; loài sinh trưởng xa nhất về phía nam là Acacia dealbata (keo bạc), Acacia longifolia (keo bờ biển hay keo vàng Sydney), Acacia mearnsii (keo đen) và Acacia melanoxylon (keo gỗ đen), đạt tới 43°30' vĩ nam ở Tasmania, Australia, trong khi Acacia caven đạt tới vĩ độ tương tự như thế về phía nam, tại khu vực đông bắc tỉnh Chubut, Argentina. Trong tiếng Anh, các loài ở Australia gọi chung là wattle (cây keo Úc), còn các loài châu Phi và châu Mỹ gọi chung là acacia (cây keo).
Đặc điểm
Lá của các loài keo nói chung là loại lá hình lông chim phức. Tuy nhiên, ở một số loài đặc biệt ở Australia và các đảo trên Thái Bình Dương thì các lá chét bị triệt tiêu và các cuống lá có dạng phẳng và bẹt, hướng lên trên, có tác dụng giống như lá; chúng được gọi là cuống dạng lá. Hướng thẳng đứng của các cuống dạng lá bảo vệ cho các loài cây này không bị quá nóng do ánh sáng dữ dội của Mặt Trời, do chúng chắn ít ánh sáng hơn so với các lá cây nằm ngang. Một số loài (chẳng hạn Acacia glaucoptera) thiếu cả lá lẫn cuống dạng lá, nhưng có cành dạng lá, là một phần của thân cây đã biến đổi thành dạng tương tự như lá để có chức năng quang hợp.
Các hoa nhỏ có 5 cánh hoa rất nhỏ, gần như ẩn kín trong các nhị hoa dài và được phân bổ trong các cụm hoa dày dặc dạng hình cầu hay hình trụ; chúng có màu vàng hay màu kem ở một số loài, một số loài khác thì màu hơi trắng hay thậm chí là tía (chẳng hạn Acacia purpureapetala) hoặc đỏ (trong loài được trồng gần đây Acacia leprosa).
Các loài thường có gai, đặc biệt ở các loài sinh trưởng trong khu vực khô cằn. Chúng thường là các cành bị ngắn đi, cứng và sắc, hoặc đôi khi là lá kèm dạng lá biến hóa thành. Các ví dụ: Acacia armata là cây gai Kangaroo ở Australia, Acacia giraffae, là cây gai lạc đà ở châu Phi. Tại Trung Mỹ, Acacia sphaerocephala (cây gai bò) và Acacia spadicigera, các lá kèm tương tự như gai lớn thường rỗng và cung cấp nơi làm tổ cho các loài kiến, chúng ăn các chất được tiết ra trên cuống lá và các loại thức ăn kỳ dị ở chóp lá chét; ngược lại chúng bảo vệ cho cây chống lại các loài côn trùng ăn lá.
Tại Australia, các loài keo bị ấu trùng của một số loài nhậy thuộc họ Hepialidae phá hoại, chẳng hạn các loài thuộc chi Aenetus như A. ligniveren. Chúng đào hang theo chiều ngang vòng quanh thân cây, sau đó theo chiều đứng xuống dưới. Các ấu trùng khác cùng thuộc bộ Lepidoptera cũng được ghi nhận là phá hoại Acacia, như bướm đuôi nâu, Endoclita malabaricus và nhậy củ cải. Các loài ấu trùng ăn lá của một số loài thuộc họ Bucculatricidae cũng phá hoại lá keo: chẳng hạn Bucculatrix agilis chỉ ăn lá của cây Acacia horrida hay Bucculatrix flexuosa chỉ ăn lá cây Acacia nilotica.
MỌI CHI TIẾT XIN LIÊN HỆ: 0393814149 [ CÓ ZALO ].