Náng hoa trắng là cây gì?
CâyNáng hoa trắngcó nhiều tên gọi khác nhau như đại tướng quân, cây lá náng, văn thù lan, hoa náng, chuối nước, thập bát học sĩ. Nó có tên khoa học làCrinum asiaticumL., họ Thủy tiên Amaryllidaceae.
Cây thân thảo lớn, thân hành to hình cầu hoặc hình trứng thuôn, đường kính đến 10cm, thắt lại ở đầu. Lá mọc thẳng từ thân hành, hình dài, phiến dày. Chiều dài lá có thể hơn 1m, rộng 5 – 10cm, gốc có be rộng, đầu nhọn, mép nguyên uốn lượn. Gân lá song song, gân chính lồi rõ ở dưới mặt dưới. Hai mặt lá màu lục nhạt
Hoa mọc thành cụm ở giữa, trên 1 cán dẹt, dài 40 – 60cm. Mỗi cụm gồm nhiều hoa to màu trắng, thơm. Quả gần hình cầu, đường kính 3 – 5cm, thường chỉ chứa 1 hạt. Mùa hoa quả vào tháng 6 – 8.
Nơi phân bố, sinh trưởng và phát triển
Náng hoa trắng có nguồn gốc vùng nhiệt đới châu Á. Nó phân bố rải rác từ Ấn Độ, Malaysia, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, phía nam Trung Quốc. Ở nước ta, cây mọc hoàn ở những nơi ẩm ướt, đôi khi được đem về trồng làm cảnh. Người ta trồng bằng dì, màu hoa trắng đẹp, thơm về chiều và đêm.
Đây là loại cây ưa sáng, ưa ẩm, có thể chịu bóng. Nó sinh trưởng mạnh trong mùa mưa ẩm, một năm có thể ra 4 – 6 lá mới, thay thế các lá đã già. Mùa đông lạnh, cây tạm ngừng sinh trưởng. Nó có khả năng đẻ nhánh khỏe từ chồi gốc.
Tác dụng của Náng hoa trắng
Bộ phận dùng
Lá và thân hành thu hái quanh năm. Thường dùng tươi, hái về dùng ngay không cần chế biến gì.
Thành phần hóa học và tác dụng dược lý hiện đại
Thành phần hóa học chủ yếu của Náng hoa trắng là các hợp chất alkaloid. Trên các bộ phận của cây chứa 118 ancaloid khác nhau đã được xác định. Ví dụ ở quả có Criasbetaine, lycorine-1,2-O- -D-diglucoside, ungeremine. Ở củ có Hippadine, pratorimine, pratorinine. Còn ở lá có Lycorine, crinamine, siculine, 1-epijosephinine.
Ngoài ra các bộ phận trong cây còn chứa các hợp chất aldehyde, este, rượu, phenol, axit béo, tecpen.