Hà thủ ô dùng làm thuốc bổ huyết là Hà thủ ô đỏ, còn gọi là Chế thủ ô. Thủ ô là rễ phơi khô của cây Hà thủ ô đỏ ( Polygonum multiflorum thunb) thuộc họ Rau răm ( Polygonaceae). Chế Hà thủ ô là Hà thủ ô là Hà thủ ô chế với Đậu đen ( 9 lần đồ, 9 lần phơi) cho Hà thủ ô thành màu đen có tác dụng bổ huyết tốt.
Tính vị qui kinh:
Về tính vị:
Vị đắng, ngọt, sáp, hơi ôn, qui kinh Can thận.
Theo các sách thuốc cổ:
Sách Hà thủ ô lục: vị ngọt, tính ôn, không độc.
Sách Khai bảo trùng định bản thảo: vị đắng, sáp, hơi ôn, không độc.
Sách Bản thảo hội ngôn: dùng sống khí hàn, tính liễm có độc. Chế thục khí ôn không độc.
Về qui kinh:
Sách Bản thảo cương mục: túc quyết âm, thiếu âm.
Sách Bản thảo kinh giải: nhập túc thiếu dương đởm kinh, thủ thiếu dương tam tiêu kinh, thủ thiếu âm tâm kinh, túc thiếu âm thận kinh.
Sách Bản thảo tái tân: nhập 3 kinh Tỳ Phế Thận.
Cách dùng: 10 - 30g thuốc sắc, nấu dạng cao, ngâm hoặc hoàn tán. Dùng ngoài theo yêu cầu bệnh lý, dạng sắc rửa, bột bôi hoặc đắp.
Chú ý:
Trường hợp bổ ích tinh huyết dùng Chế thủ ô để giải độc, nhuận tràng. Trị sốt rét dùng Sinh thủ ô, tác dụng giải độc và nhuận tràng của Thủ ô càng mạnh hơn Sinh thủ ô.
Chế thủ ô so với Thục địa: Thủ ô thiên về bổ can hư, Thục địa thiên về bổ thận hư. Thủ ô bổ nhưng không nê trệ như Thục địa. Theo kinh nghiệm lâm sàng thì nếu tâm huyết kém, não huyết kém dùng Thủ ô tốt, nếu là khí huyết suy nhược, tuần hoàn ngoại vi kém, chân tay lạnh thì dùng Thục địa tốt hơn.
Không nên dùng chung với các loại thuốc khoáng chất như: Từ thạch, Đại giá thạch, không nấu chung trong các dụng cụ bằng sắt.