Húng chanh hay tần dày lá là vị thuốc rất phổ biến dùng chữa cảm cúm, ho hen, viêm họng rất hữu hiệu. Viện vi trùng nghiên cứu (năm 1961) cho thấy có tác dụng kháng sinh mạnh đối với các vi khuẩn Staphylococcus, Salmonella typhi, Shigella flexneri, Shigella sonnei, Shigella dysenteria, Subtilis, Escherichia coli, Coli bothesda, Streptococcus, Pneumococcus ... Eucalyptol là hoạt chất trích tinh từ tinh dầu khuynh diệp có tính sát trùng, được dùng chữa ho, kích thích tiêu hoá. Eucalyptol được đào thải chủ yếu qua đường hô hấp sau khi phân tán trong huyết tương. Bọ mắm tức cây thuốc dòi: viêm họng, ho lâu năm, ho lao. Núc nác hay mộc hồ điệp: chữa ho lâu ngày, viêm khí - phế quản, đau dạ dày. Viễn chí được dùng trong tây y làm thuốc chữa ho nhiều đờm. Theo tài liệu cổ: viễn chí có vị đắng tính ôn vào 2 kinh tâm và thận. Có tác dụng an thần, ích trí, tán uất, hoá đờm, tiêu ung thũng. Dùng chữa hồi hộp, hay quên, hay sợ hãi, ho nhiều đờm, ung thư sưng thũng. Vỏ quả quít cũng gọi trần bì là vị thuốc chữa ho mất tiếng, trừ đờm.
Ngoài ra còn có tác dụng chữa ăn uống không tiêu, nôn mửa còn An tức hương còn gọi cánh kiến trắng, cây bồ đề: chữa viêm phế quản kinh niên. Natri benzoat có tính sát trùng, thường dùng trong các chế phẩm chữa ho.
Dùng điềutrị các trường hợp: ho khan, ho có đờm, ho mất tiếng, ho kinh niên, ho do dị ứng, viêm đau họng, viêm khí quản, phế quản, sổ mũi, cảm cúm.
Làm loãng dịch nhầy đường hô hấp, long đờm.
HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG
Trẻ em từ 30 tháng tuổi đến 6 tuổi: uống 5 - 10 ml (1 - 2 muỗng cà phê hoặc ½ - 1 ống) x 3 lần/ ngày.
Trẻ em trên 6 tuổi và người lớn: uống 15 ml (1 muỗng canh hoặc 1½ ống) x 3 lần/ ngày.
Hoặc theo chỉ dẫn của Thầy thuốc.